Viêm kết mạc cấp tính (viêm kết mạc adenovirus hoặc “mắt đỏ”) là tình trạng viêm gây ra do nhiễm trùng từ vi khuẩn hoặc virus. Mắt đỏ cũng có thể do dị ứng, tổn thương mắt hoặc phản ứng với thuốc.
Viêm kết mạc cấp tính là bệnh về mắt rất dễ lây với mức độ tấn công trong nội bộ gia đình lên đến 50%. Khoảng 35–50% bệnh nhân phát triển các biến chứng.
Không giống như viêm kết mạc do vi khuẩn, viêm kết mạc cấp tính liên quan đến các bệnh lý quan trọng như:
- Giảm thị lực hoặc độ nhạy ánh sáng do thâm nhiễm dưới biểu mô dai dẳng (giác mạc viêm tích tụ)
- Chảy nước mắt mãn tính (chảy nước mắt quá mức) từ các vấn đề thoát lệ đạo.
- Mất thị lực do kết mạc co rút và kết mạc bị dính một phần hay toàn phần (sẹo kết mạc)
Viêm kết mạc cấp thường lây qua đường nào
Tiếp xúc trực tiếp với người mắc bệnh, qua đường hô hấp, qua nước mắt, nước bọt, bắt tay…
- Tiếp xúc gián tiếp qua việc cầm, nắm, chạm vào những vật dụng bị nhiễm vi khuẩn, virus gây bệnh (như tay nắm cửa, đồ chơi, nút bấm cầu thang…)
- Dùng chung vật dụng, đồ dùng cá nhân với người bệnh (như khăn mặt, ly/cốc nước uống, gối…)
- Sử dụng nguồn nước công cộng dễ bị nhiễm mầm bệnh (ao, hồ, bể bơi)
- Thói quen dùng tay dụi mắt, sờ vào mũi, ngậm vào miệng…
Một số điều lưu ý đối với khả năng lây nhiễm của viêm kết mạc
- Ở những nơi công cộng, bao gồm bệnh viện, trường học, văn phòng làm việc… hoặc những khu vực có mật độ người đông, thường phải tiếp xúc với cự ly gần như bến tàu xe, trên xe bus, chợ… nguy cơ lây lan bệnh đau mắt đỏ (viêm kết mạc do virus) là rất cao.
- Trong vòng một tuần sau khi hết bệnh, viêm kết mạc vẫn có khả năng lây cho người khác. Vì vậy, để phòng bệnh cho cá nhân và tránh lây lan cho người khác, cần giữ gìn vệ sinh cá nhân thật tốt, rửa tay kỹ, chú ý thói quen sinh hoạt.
- Đặc biệt đối với các bé, phụ huynh nên nhắc nhở con trẻ không dụi mắt, nhất là khi đang sinh hoạt chung với nhóm bạn. Bên cạnh đó, giữ vệ sinh mắt sạch sẽ mỗi ngày, rửa tay thường xuyên bằng xà phòng hoặc dung dịch sát khuẩn.
Triệu chứng bệnh viêm kết mạc cấp
Bệnh viêm kết mạc cấp thường khởi phát ở các trẻ nhỏ với các triệu chứng điển hình như: cộm xốn, ngứa mắt, sưng đỏ mí và kết mạc, chảy rỉ ghèn và nước mắt, nhất là vào buổi sáng ghèn làm dính chặt lông mi rất khó mở mắt khiến trẻ rất khó chịu, phải thường xuyên dụi mắt.
Một số trường hợp viêm kết mạc cấp do virus sẽ bị nổi hạch trước tai sưng và đau. Nếu nguyên nhân là vi trùng thì ghèn thường có màu vàng đặc như mủ còn do virus thì thường trắng trong, dai kéo thành sợi. Một số trẻ có thể kèm theo các triệu chứng viêm đường hô hấp như ho, sốt, sổ mũi, khò khè.
Bình thường bệnh sẽ giảm dần và hết sau 5-7 ngày. Nếu bị biến chứng viêm giác mạc (lòng đen) sẽ có biểu hiện chảy nước mắt, nhìn mờ, chói mắt khi nhìn ra ánh sáng. Trường hợp này nếu không được điều trị đúng và kịp thời có thể gây loét giác mạc rất nguy hiểm và ảnh hưởng tới thị lực lâu dài.
Một số trường hợp tiến triển nặng, các sợi Fibrine trong dịch tiết của kết mạc sẽ kết hợp với tế bào viêm và vi khuẩn tạo thành một màng giả bám chặt ở mặt trong kết mạc, gây sưng húp mi mắt, loét trợt biểu mô giác mạc rất nguy hiểm. Có thể kèm theo xuất huyết kết mạc và chảy nước mắt lẫn máu hồng.
Cách điều trị viêm kết mạc cấp tính
Khi bị viêm kết mạc cấp tính, bạn không nên tự điều trị mà cần đến khám ngay với bác sĩ chuyên khoa mắt để được khám, chẩn đoán xem có thật sự do viêm kết mạc hay không vì có những trường hợp đau mắt đỏ do viêm loét giác mạc, viêm màng bồ đào, viêm nội nhãn …
Tùy vào nguyên nhân cụ thể bác sĩ sẽ đưa ra hướng điều trị thích hợp:
Viêm kết mạc do virus: bệnh tự khỏi sau vài ngày, cần chườm lạnh để giảm triệu chứng phù nề.
Viêm kết mạc do vi khuẩn: bác sĩ sẽ kê toa bao gồm thuốc kháng sinh, kháng viêm để điều trị.
Trường hợp do dị ứng sẽ được kê toa thuốc nhỏ hoặc thuốc uống giảm tình trạng dị ứng.
Khi bị viêm kết mạc, bệnh nhân nên nghỉ học hoặc nghỉ làm vài ngày cho đến khi khỏi hẳn để tránh lây bệnh. Đối với những bệnh nhân đeo kính áp tròng khi bị đỏ mắt phải ngưng dùng ngay. Khi sử dụng thuốc nhỏ mắt, không nên để đầu lọ thuốc chạm vào mắt và lông mi vì sẽ làm bẩn lọ thuốc. Nên dùng khăn mềm, nhúng nước, để vào ngăn lạnh sau đó đắp lên mắt để giảm các triệu chứng phù nề.
Đặc biệt những bệnh nhân viêm kết mạc do vi khuẩn và virus cần giữ vệ sinh để đảm bảo không lây truyền bệnh cho người xung quanh của mình bằng cách rửa tay thường xuyên trước và sau khi chạm vào mắt, che mũi và miệng khi hắt hơi.
Cách phòng ngừa viêm kết mạc cấp tính
Vệ sinh là cách tốt nhất để ngăn ngừa lây lan viêm kết mạc cấp. Một khi bị đau mắt cần thực hiện tốt những nội dung sau đây:
- Đối với người bệnh: Không dụi tay bẩn lên mắt. Rửa tay kỹ và thường xuyên bằng xà phòng, hạn chế bắt tay và tiếp xúc trực tiếp. Đeo khẩu trang khi phải tiếp xúc gần hoặc chăm sóc trẻ nhỏ. Nên lau ghèn và nước mắt bằng khăn giấy hoặc cotton ẩm, và chỉ dùng một lần. Dùng riêng đồ dùng cá nhân như khăn, chậu rửa mặt, ly chén. Giặt ga giường, vỏ gối, khăn mặt bằng nước tẩy, phơi khô và ủi nóng.
- Đối với những người khác trong gia đình: Không hôn hít, ôm ấp, ngủ chung với người bệnh. Ngay sau khi chăm sóc và nhỏ thuốc cho người bệnh phải rửa tay sạch sẽ bằng xà phòng, lau khô rồi mới chăm sóc cho mình hoặc người khác. Tuyệt đối không được sử dụng thuốc của người bệnh để nhỏ phòng ngừa cho mình và người khác, điều này nguy hiểm vì sẽ gây lây nhiễm chéo và tạo ra chủng vi khuẩn kháng thuốc.
- Đối với trường học: Khi có trẻ đau mắt cần cho nghỉ học cách ly tại nhà từ 3-5 ngày để tránh lây lan. Tăng cường công tác vệ sinh, hướng dẫn trẻ thường xuyên rửa tay và không dụi tay bẩn lên mắt. Đối với các trường nội trú bán trú không cho học sinh dùng chung đồ dùng cá nhân và ngủ chung giường, nhất là trong các mùa dịch đau mắt. Các cô giáo, cô bảo mẫu cũng phải lưu ý rửa tay thường xuyên và đeo khẩu trang mỗi khi chăm sóc cho từng trẻ. Nếu cô giáo bị đau mắt cũng phải nghỉ cách ly ít nhất 3-5 ngày tránh lây cho học sinh khác.
Khi bị bệnh viêm kết mạc cấp, tuyệt đối không tự điều trị tại nhà mà phải đến các bệnh viện mắt chuyên khoa để bác sĩ khám và điều trị.